Tầm nhìn phát triển Việt Nam đến giữa thế kỷ XXI

Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD trong những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Năm 2019, quy mô nền kinh tế Việt Nam chỉ đạt khoảng 262 tỷ USD.

Thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.800 USD (nếu tính cả quy mô nền kinh tế bị bỏ sót thì đã trên 3.000 USD). Tỷ lệ người nghèo đã giảm mạnh, từ mức trên 60% vào những năm đầu đổi mới xuống mức khoảng dưới 4% năm 2019. Văn hóa, xã hội, con người phát triển toàn diện; đời sống vật chất và tinh thần của mọi người dân được cải thiện, ngày càng trở nên phong phú; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được cũng cố vững chắc. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền được giữ vững; đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng. Những thành tựu rất đáng tự hào đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta và điều này càng khẳng định sự đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã lựa chọn.

Tuy nhiên, chúng ta chưa hài lòng với kết quả đạt được, lại càng không thể tự mãn, chủ quan trước nguy cơ tụt hậu. Trong 31 năm kể từ khi tiến hành đổi mới (1986-2017), Việt Nam mới duy trì được mức tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,63%/năm, song tốc độ tăng trưởng các giai đoạn sau lại có xu hướng giảm dần. Trong khi đó, Hàn Quốc đã duy trì được mức tăng trưởng kinh tế bình quân 9,2%/năm trong suốt 44 năm (1951-1995). Theo Ngân hàng Thế giới, khi đạt đến mức GDP bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam, trong một thập niên tiếp theo, Hàn Quốc (1987-1997) và Trung Quốc (2007-2017) vẫn duy trì mức tăng trưởng GDP bình quân 8,8%/năm; Malaysia tăng trưởng 7,2%/năm (1995-2005) cho dù chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998. Mặc dù đã được thu hẹp đáng kể, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn thua Hoa Kỳ hơn 25 lần; Singapore 24 lần; Nhật Bản 16 lần; và các nước OECD 16 lần.

Bối cảnh quốc tế đang có nhiều biến động, đặt ra những cơ hội và thách thức rất mới, tác động trực tiếp đến môi trường phát triển của nước ta. Do tác động của đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng sâu sắc và có nguy cơ suy thoái kéo dài. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gây gắt. Cục diện an ninh, chính trị thế giới đanh chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ trong tương quan sức mạnh toàn cầu, quan hệ “bất thường” và cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục diễn ra phức tạp.

Đặc biệt, Việt Nam đã và sẽ chịu tác động mạnh của ba vấn đề lớn:

Thứ nhất, tiến trình toàn cầu hóa và hội nhệp kinh tế quốc tế diễn biến phức tạp. Sự đan xen của các quá trình hội nhập đa phương và song phương đưa thế giới đến một “cấu trúc ma trận” các FTA, trong đó phải kể đến các FTA thế hệ mới, trên nhiều tuyến và nhiều cấp độ. Quốc gia nào trở thành tâm điểm, đầu mối của các FTA này sẽ có nhiều cơ hội phát triển, đóng vai trò quan trọng hơn trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 và chiến tranh thương mại đang làm đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu. Tình trạng bất bình đẳng bắt nguồn từ mặt trái của chủ nghĩa tự do mới kích hoạt chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc kinh tế, xu hướng phản kháng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trước những động thái trái chiều đó, thế giới đang hướng đến những chương trình nghị sự mới như: “toàn cầu hóa bao trùm”, “toàn cầu hóa 4.0”, xây dựng nền kinh tế nhân văn, v.v. để đảm bảo công bằng và hòa nhập trong việc hưởng thụ các thành quả của tăng trưởng kinh tế, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển.

Nằm trong khu vực tăng trưởng kinh tế năng động và thiết lập được một mạng lưới FTA rộng khắp, Việt Nam trở thành cửa ngõ quan trọng để tiếp cận với các thị trường lớn của thế giới. Nước ta cũng có lợi thế trong chiến lược Trung Quốc+1 của các nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, tính phức tạp của tiến trình hội nhập quốc tế đang gây ra sức ép điều chỉnh chính sách theo nhiều kênh, nhiều tuyến, tạo ra tác động nhiều chiều, khó đối phó và kiểm soát. Sự hình thành những định chế mới do các nước lớn đề xuất vừa là cơ hội song cũng vừa là thách thức không nhỏ cho Việt Nam trong việc lựa chọn đối sách tham gia. Hơn nữa, bản thân các FTA không đủ để giúp Việt Nam thực hiện hóa các mục tiêu phát triển của mình. Mặc dù giúp tiếp cận tốt hơn thị trường của các đối tác, gia tăng khối lượng thương mại và đầu tư trong ngắn hạn, nhưng các FTA vẫn không đảm bảo được nền kinh tế Việt Nam có thể vượt lên khỏi phân khúc thấp của chuỗi giá trị toàn cầu hay đem lại nhiều việc làm có năng suất cao hơn bởi những điều này lại chủ yếu phụ thuộc vào tiến độ hoàn thiện thể chế phát triển trong nước.

Thứ hai, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh chóng, đặc biệt với những đột phá công nghệ trong nhiều lĩnh vực đem đến sự thay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm và sản xuất, kinh doanh. Bước chuyển nhanh sang nền kinh tế số và tầm quan trọng của tiến bộ khoa học - công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa đưa đến ba cách tiếp cận phát triển mới: lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh thuộc về những ngành dựa trên tri thức, số hóa và công nghệ cao; nguồn lực phát triển quan trọng nhất là tri thức, tài nguyên số và trí tuệ con người; và tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi gía trị toàn cầu tạo cho các nước và các nhà sản xuất có cơ hội phát triển hiệu quả nhất. Xu thế đổi mới công nghệ diễn ra nhanh đặt ra những vấn đề mới về mô hình phát triển và con đường “đi tắt, đón đầu” của các nước. Việt Nam có lợi thế của các nước đi sau khi đi thẳng vào phát triển những lĩnh vực mới của nền kinh tế số, nhất là nhanh chóng hình thành các ngành công nghiệp kết nối và thiết lập hạ tầng số. Song đây cũng là thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nếu quá trình công nghiệp hóa vẫn theo chiều rộng, dựa vào lao động kỹ năng thấp và tài nguyên thiên nhiên. Giai đoạn vừa qua, mô hình này đã tạo ra nhiều việc làm và tạo thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư, nhưng nếu tiếp tục duy trì thì càng hội nhập sâu hơn, nền kinh tế Việt Nam sẽ càng lệ thuộc vào bên ngoài, càng có nguy cơ lún sâu vào những nắc thang thấp của chuỗi giá trị toàn cầu. Hơn nữa, với việc ứng dụng các công nghệ mới như robots, các ngành sản xuất thâm dụng lao động sẽ dịch chuyển trở về những nước phát triển; do quá trình tự động hóa khiến chi phí giảm mạnh hơn, những nước này sẽ có lợi thế xuất khẩu ngược hàng hóa sang Việt Nam. Nếu không hóa giải thách thức này, các FTA thế hệ mới thậm chí có nguy cơ trở thành “bẫy hội nhập” của Việt Nam trong thời gian tới.

Thứ ba, Việt Nam là một trong 5 nước bị tổng thương nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng. Các áp lực về chuyển đổi phương thức phát triển trong bối cảnh thiếu hụt về tài nguyên, năng lượng, … rất có thể sẽ đặt nền kinh tế nước ta trước nhiều khó khăn về cạnh tranh và làm suy giảm tính hiệu quả. Việc nâng cao năng lực “thích ứng” với biến đổi khí hậu, nhất là chuẩn bị nguồn lực để sẵn sàng ứng phó với các tình huống khẩn cấp, đặc biệt là các loại thiên tai thường xuyên xảy ra sẽ là thách thức lớn. Tuy nhiên, những phương thức phát triển mới như: tăng trưởng xanh; phát triển kinh tế sinh thái, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẽ; xây dựng thành phố “đáng sống”, thành phố xanh, v.v. cũng mang lại cho Việt Nam nhiều sự lựa chọn nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Việc thực hiện những phương thức mới này là cơ hội để mang lại sự thay đổi trong nhận thức và thực tiễn hành động: từ chuyển đổi mô hình công nghiệp hóa, hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển ngành công nghiệp cao, thay đổi phương thức sử dụng năng lượng, xây dựng các thể chế mới cho nền kinh tế cho đến thay đổi thói quen sinh hoạt, tiêu dùng và làm việc v.v.. Vấn đề quan trọng trong vấn đề này là thiết lập một khung khổ chính sách, chiến lược mới, phù hợp để hỗ trợ thúc đẩy quá trình chuyển dịch của nền kinh tế. Cơ hội chuyển dịch sang một phương thức phát triển bền vững là như nhau đối với mọi quốc gia song bước quá độ ở các quốc gia khác nhau sẽ khác nhau bởi nó tùy thuộc vào đặc thù về vốn tự nhiên, vốn con người, thể chế và trình độ phát triển.

Việt Nam đã bước vào giai đoạn chuyển từ tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên gia tăng huy động và sử dụng nguồn lực sang tăng trưởng chủ yếu dựa trên gia tăng hiệu quả. Trong thời kỳ đầu của giai đoạn này, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục nâng cao hiệu quả khai thác các dư địa còn lại của mô hình tăng trưởng cũ. Tuy nhiên, cách làm này là không đủ để giúp nền kinh tế Việt Nam tiến xa như khát vọng phát triển bởi nguồn lực như vốn, tài nguyên (thông thường) và lao động chỉ có giới hạn. Do đó, cần đẩy nhanh sự chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng mới dựa trên nền tảng là công nghệ và đổi mới sáng tạo - là những yếu tố không có trần giới hạn. Đây là điều kiện quan trọng để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, vượt qua được bẫy thu nhập trung bình, thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đang tiến vào một quỹ đạo phát triển cao hơn; hoàn cảnh và điều kiện phát triển đã thay đổi, đặt ra những nhiệm vụ và mục tiêu mới. Trên nền tảng đã tạo lập, phát huy cao độ ý chí, tinh thần đoàn kết, sáng tạo, sức mạnh to lớn của “ý Đảng, lòng dân”, dân tộc ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, để thực hiện tầm nhìn đưa Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào thế kỷ XXI, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tầm nhìn đó được hiện thực hóa qua ba mốc phát triển quan trọng của đất nước.

  1. Đến năm 2025: là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
  2. Đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm ngày Đảng ta thành lập): là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao.
  3. Đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước): trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Việc xác định trở thành “nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mở ra một giai đoạn mới, đồng thời thể hiện tính liên tục và hoàn chỉnh trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. “Định hướng xã hội chủ nghĩa” là nét đặc sắc nổi bật, thể hiện bản chất nhân văn, tiến bộ; sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đặc trưng quan trọng nhất trong việc thực hiện tầm nhìn phát triển Việt nam, do chính con người Việt Nam thực hiện. Tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước là nguồn khơi dậy ý chí, quyết tâm phát triển của dân tộc; đồng thời, là cơ sở tạo sự thống nhất từ nhận thức cho đến hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân để thực hiện thắng lợi các định hướng, nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn tới:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Thứ hai, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam; đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế thịnh vượng dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững với khả năng chống chịu cao trước các rủi ro phát triển từ bên ngoài, trước các tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai.

Thứ ba, xây dựng xã hội văn minh, hạnh phúc, dân chủ, kỷ cương, có sự kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống dân tộc với các giá trị chung, tiến bộ của nhân loại, không để ai bị bỏ lại phía sau, mọi người dân đều tham gia và đều được hưởng lợi từ thành quả phát triển; khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, tài năng, trí tuệ, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam.

Thứ tư, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, thực hiện tốt các chức năng của mình, đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật, quyền lực thuộc về nhân dân và có trách nhiệm giải trình cao; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.

Thứ năm, xây dựng một quốc gia phát triển có vị thế cao, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đóng góp cho hòa bình, phát triển và ổn định của thế giới và khu vực; kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Thứ sáu, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng để lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

# tinhuy.daknong.gov.vn


Tin tức nổi bật